5 đột phá mạnh mẽ của Nghị quyết 57
Trong bối cảnh của cuộc cách mạng chuyển đổi số, lần đầu tiên tại Nghị quyết 57, khoa học, công nghệ cùng với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được đặt lên vị trí "đột phá quan trọng hàng đầu" với những mục tiêu cùng các giải pháp quyết liệt chưa từng có.
Thời gian qua, cơ chế thực thi để đưa Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống chưa thực sự hiệu quả, tư duy của hệ thống quản lý chậm đổi mới, dẫn tới các giải pháp bị vô hiệu hóa hoặc thực hiện không triệt để. Vì vậy, cho đến nay có thể nói khoa học và công nghệ Việt Nam vẫn chưa thực sự thúc đẩy mạnh mẽ nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, chưa tương xứng với vai trò "nền tảng, động lực" và "quốc sách hàng đầu" như kỳ vọng.
Trong bối cảnh cuộc cách mạng chuyển đổi số, lần đầu tiên tại Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị, khoa học, công nghệ cùng với đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số được đặt lên vị trí "là đột phá quan trọng hàng đầu" với những mục tiêu quan trọng, cụ thể cùng các giải pháp quyết liệt chưa từng có.
Điểm đột phá đầu tiên là Đảng ta đã đặt ra các mục tiêu cụ thể ở mức cao đến năm 2030 và 2045 để Việt Nam có thể trở thành quốc gia phát triển có thu nhập cao.
Theo đó, đến năm 2030, Việt Nam thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu Đông Nam Á, nhóm 50 nước đứng đầu thế giới về năng lực cạnh tranh số và chỉ số phát triển Chính phủ điện tử; nhóm 3 nước dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về nghiên cứu và phát triển trí tuệ nhân tạo, trung tâm phát triển một số ngành, lĩnh vực công nghiệp công nghệ số mà Việt Nam có lợi thế. Đến 2045 Việt Nam có quy mô kinh tế số đạt tối thiểu 50%, thuộc nhóm 30 nước dẫn đầu thế giới về đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số… Đây là những mục tiêu rất khó, muốn đạt được đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực rất lớn.
Điểm đột phá thứ hai là Nghị quyết 57 xác định phải tăng đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Cụ thể, đến 2030, kinh phí chi cho nghiên cứu phát triển (R&D) đạt 2% GDP, trong đó kinh phí từ đầu tư xã hội chiếm hơn 60%; bố trí ít nhất 3% tổng chi ngân sách hằng năm cho phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số quốc gia và tăng dần theo yêu cầu phát triển.
Đây là một mục tiêu khá thách thức nếu nhìn lại tình hình đầu tư nhiều năm qua, chi ngân sách nhà nước cho khoa học và công nghệ giảm dần và thường dưới 1% tổng chi ngân sách nhà nước, không năm nào đạt mức mà Nghị quyết 20 và Luật Khoa học và Công nghệ 2013 quy định.
Nguồn đầu tư của xã hội chủ yếu đến từ đầu tư của các doanh nghiệp, do nhu cầu tự thân của doanh nghiệp cần đổi mới công nghệ và tạo sản phẩm mới có sức cạnh tranh trên thị trường.
Mặc dù Luật Khoa học và Công nghệ (KH&CN) và Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp đã quy định doanh nghiệp được trích tối đa 10% thu nhập tính thuế, trong đó doanh nghiệp nhà nước buộc phải trích tối thiểu 3% thu nhập tính thuế để đầu tư cho R&D thông qua quỹ phát triển KH&CN của doanh nghiệp, nhưng do bất cập của cơ chế quản lý nên đến nay hầu hết doanh nghiệp không thực hiện quy định này.
Việc tăng đầu tư theo Nghị quyết 57 sẽ tiệm cận với mức đầu tư như các nước phát triển, qua đó tạo động lực cho cộng đồng các nhà khoa học Việt Nam và nâng cao tiềm lực khoa học và công nghệ quốc gia, nhưng để đạt được mức đầu tư cao như vậy đòi hỏi phải có chế tài và biện pháp hỗ trợ doanh nghiệp, thậm chí nên dỡ bỏ trần 10% thu nhập tính thuế và quy định cơ chế quản lý quỹ của doanh nghiệp thông thoáng hơn, vì doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, cần nguồn tài chính lớn để chuyển đổi số và đổi mới công nghệ.
Điểm đột phá thứ ba là Nghị quyết 57 đã có đột phá về tư duy trong quản lý đầu tư ngân sách nhà nước cho hoạt động R&D.
Theo đó, ngân sách chi cho nghiên cứu, phát triển khoa học, công nghệ ưu tiên thực hiện theo cơ chế quỹ, thông qua các quỹ phát triển khoa học và công nghệ.
Tư duy này đã được đề cập tại Nghị quyết 20-NQ/TW năm 2012, nhưng hơn 10 năm qua gần như không làm được điều này, bởi quản lý tài chính vẫn duy trì tư duy cũ, chưa quan tâm đến tính đặc thù của lĩnh vực khoa học và công nghệ, đầu tư cho nó như lĩnh vực xây dựng cơ bản.
Ví dụ quy định hiện nay là ngân sách chỉ được cấp cho nhiệm vụ đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt trước và thuộc danh mục các nhiệm vụ trong dự toán ngân sách nhà nước năm trước, vì vậy các nhà khoa học phải chờ đợi hàng năm mới được cấp kinh phí cho nhiệm vụ đã được đề xuất và được phê duyệt.
Lần này, Nghị quyết 57 đã quy định rất cụ thể và nếu có sự chỉ đạo quyết liệt, chắc chắn sẽ tạo ra sự thay đổi. Bởi cơ chế quỹ là một thông lệ quốc tế, nghĩa là ngân sách nhà nước tài trợ cho các nhiệm vụ KH&CN (đề tài, đề án, dự án, chương trình KH&CN…) sẽ được phân bổ trực tiếp cho các quỹ phát triển KH&CN theo mức vốn điều lệ và khả năng bố trí nguồn ngân sách hằng năm.
Kinh phí từ các quỹ sẽ được cấp kịp thời theo tiến độ phê duyệt nhiệm vụ, được chuyển nguồn tự động và được quyết toán một lần khi kết thúc hợp đồng nghiên cứu. Cách làm này đáp ứng tính thời sự của hoạt động nghiên cứu, tạo điều kiện thuận lợi cho nhà khoa học và phù hợp thông lệ quốc tế.
Điểm đột phá thứ tư là Nghị quyết 57 xác định "chấp nhận rủi ro, đầu tư mạo hiểm và độ trễ trong nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đổi mới sáng tạo".
Bởi lâu nay các cơ quan quản lý và dư luận xã hội đều quan niệm các nhiệm vụ nghiên cứu được nhà nước tài trợ phải thành công 100%, và nếu không thành công sẽ bị coi là lãng phí, gây thất thoát ngân sách nhà nước.
Nhưng thực tế làm nghiên cứu là phải tìm ra cái mới, vì thế luôn tiềm ẩn khả năng thất bại, và ngay cả các nước phát triển thì tỷ lệ các đề tài thành công được áp dụng vào thực tiễn cũng chỉ khoảng 20-30%. Đó cũng là lý do các nước phát triển có hệ thống quỹ đầu tư mạo hiểm và văn hóa chấp nhận thất bại trong nghiên cứu, nhờ vậy họ mới có được các doanh nghiệp kỳ lân, các tập đoàn công nghệ với nhiều sản phẩm công nghệ cao.
Với quy định mang tính đổi mới tư duy này của Nghị quyết 57 chắc chắn sẽ khuyến khích các nhà khoa học dám nghĩ, dám làm, dám nhận nhiệm vụ khi tiếp cận nguồn ngân sách nhà nước đầu tư cho khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo. Bởi họ yên tâm rằng nếu thất bại họ sẽ được miễn trừ trách nhiệm, cũng như có được bài học kinh nghiệm để giúp họ tránh được thất bại trong các nhiệm vụ tiếp theo.
Điểm đột phá cuối cùng chính là tính khả thi trong tổ chức thực hiện Nghị quyết.
Lần đầu tiên người đứng đầu Đảng ta trực tiếp làm Trưởng ban chỉ đạo thực hiện Nghị quyết và bên cạnh Ban chỉ đạo còn có Hội đồng tư vấn gồm các nhà quản lý và các nhà khoa học có trình độ và uy tín. Đây là cách làm khắc phục nhược điểm của các giai đoạn trước đây, khi các Ban chỉ đạo thường chỉ bao gồm đại diện các cơ quan quản lý nhà nước, không đủ quyền lực trong hệ thống chính trị và nặng tư duy nhiệm kỳ.
Để Nghị quyết của Đảng vào cuộc sống đòi hỏi phải có sự vào cuộc đồng bộ của cả hệ thống chính trị chứ không chỉ cơ quan hành pháp, phải thay đổi tư duy của cả bộ máy quản lý từ Trung ương đến địa phương, phải xây dựng hành lang pháp lý đầy đủ có tính khoa học và thực tiễn đối với các quy định mới mang tính đột phá, phải được sự ủng hộ của mọi tầng lớp nhân dân và doanh nghiệp, phải phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đây là một quá trình lâu dài, phức tạp cần có sự chỉ đạo xuyên suốt và quyết liệt từ người lãnh đạo cao nhất của quốc gia, không giới hạn trong một vài nhiệm kỳ, phải tập hợp được trí tuệ của tầng lớp tinh hoa trong nước và quốc tế.
Thanh Tú